Mai Vàng, Mùa Xuân và Việt Nam * Lý Lạc Long.

21 Tháng Giêng 201112:00 SA(Xem: 23115)
Mai Vàng, Mùa Xuân và Việt Nam

 Lý Lạc Long.

Mai, Lan, Cúc, Trúc là biểu tượng của bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Mai p_hoamai5-large-contentvàng, một loài hoa đẹp cao quý chỉ nở mỗi năm một lần đúng vào dịp Xuân về,

với dân Việt, hoa mai đã trở thành sứ giả biểu tượng cho mùa xuân của vùng đất

phương Nam từ nghìn năm trước. Trong văn chương, hoa mai đã có mặt trong

thơ của thiền sư Không Lộ, thiền sư Mãn Giác từ thời nhà Lý, thiền sư Huyền

Quang thời nhà Trần, trong thơ của Nguyễn Trãi thời nhà Lê, trong những tác

phẩm nổi tiếng nhưĐoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, trong Lục Vân

Tiên của Nguyễn đình Chiểu ... và rất nhiều những vần thơ, những áng văn của

các văn thi nhân khác từ cổ chí kim viết để ca tụng hoa mai . Trong số này, có

hai câu thơ, tương truyền là của Chu Thần Cao Bá Quát, mà khi đọc sẽ thấy

ngay địa vị của hoa mai trong tâm tưởng của thi nhân Việt .

 

”Thập tải luân giao cầu cổ kiếm Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.

 

 (Mười năm chu du tìm gươm cổ Một đời chỉ cúi lạy hoa mai.)

 Thiền sư Huyền Quang, ông tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã

 "phong" cho hoa mai ngang hàng "ngự sử".

 

 "Ngự sử mai hai hàng chầu ráp Trượng phu tùng mây rặng phò quang"

 

 Mai cũng có mặt trong hai câu thơ khắc trên chiếc dĩa cổ cuả triều Nguyễn,

 trưng bày ở Huế mà tác giả theo tương truyền là của Nguyễn Du.

 

 "Nghêu ngao vui thú yên hà Mai là bạn cũ, hạc là người quen".

 

 Nhưng hiện nay tác giả của hai câu thơ trên là đề tài đang được tranh luận .

 Giữa Nguyễn Du, Định Viễn Quận Vương và Đông Các Đại Học Sĩ Đinh

 Phiên, ai là tác giả vẫn chưa có kết luận. (Định Viễn Quận Vương là hoàng tử

 thứ 6 của vua Gia Long. Đông Các đại học sĩ Đinh Phiên là người đã phụng

 mệnh vua Gia Long làm phó sứ cho Cần Chánh đại học sĩ Nguyễn Xuân Tình

 sang Thanh năm 1819) .

 Xuân đến- xuân đi, những ngày Xuân trôi qua, nhìn những cánh hoa mai vàng

 rơi lìa khỏi thân cành như nhắc nhở dòng thời gian đến-đi, hoa nở- hoa tàn, tóc

 xanh- tóc bạc. Vòng đời luân chuyển, mọi việc trên đời đều vô thường. Vô

 thường của thời gian, vô thường của cỏ cây hoa lá, vô thường của kiếp người.

 Một sự chu chuyển tất yếu của thiên nhiên và sinh mệnh. Ai cũng đến đi, ai

 cũng trẻ già, ai cũng sống chết. Ngắn ngủi một kiếp người, đã là thế nhân làm

 sao thoát khỏi vòng sinh tử. Phàm nhân tục tử, như hầu hết chúng ta, chắc ai

 

cũng có những cảm giác băn khoăn, nuối tiếc, lo lắng, sợ hãi... khi nghĩđến thời

điểm phải rời xa trại tạm trú trần gian này. Làm sao có thể an nhiên, tự tại,

thanh thản, sẳn sàng đón nhận sanh tử vô thường như các bậc giác ngộ ? Dù có

chờ hay chẳng đợi, thì con người vẫn phải phụ thuộc theo sự vận hành của đất

trời, như một phần tử của bộ máy tạo hóa xoay chuyển và biến hóa mãi không

ngừng. Dù vui hay buồn thì Xuân cũng đến và đi . Như tâm sự của Chế Lan

Viên khi xuân về :

" Tôi có chờđâu có đợi đâu. Đem chi xuân lại gợi thêm sầu. Với tôi tất cả là vô

nghĩa. Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau…"

 

Mỗi độ xuân về, có lẽ bài kệ thi "Cáo Tật Thị Chúng " của thiền sưMãn Giác

được nhắc đến nhiều nhất vì cái hay, cái đẹp của tứ thơ và phong thái của một

bậc giác ngộ đối diện với Sinh, Trụ, Dị và Diệt của vạn vật và con người .

 

Cáo Tật Thị Chúng:

 

 "Xuân khứ bách hoa lạc. Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá. Lão

tùng đầu thượng lai. Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi

mai."

 

(Xuân đi, trăm hoa rụng Xuân đến, trăm hoa khai. Đời thoáng ngang qua mắt.

Tóc trên đầu bạc phai. Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua, sân trước một

nhành mai.)

 

Xuân đến trăm hoa khoe sắc thắm, xuân đi qua trăm hoa rơi rụng. Xuân đến và

đi, với thiền sư, thanh thản, nhẹ nhàng, bình yên và an lạc. Với thời gian, tóc

xanh mới đó đã thành bạc thì cũng chẳng có gì vướng bận tâm hồn. Những gì

đã qua không nuối tiếc, những gì chưa đến không mong cầu. Bình thản, tự tại và

an lạc sống với hiện hữu, trước những cảnh biến đổi của thời tiết thiên nhiên,

trước những đổi thay dâu bể của cuộc đời. Nhưng đây là cách ứng xử của một

bậc chân tu, đã giác ngộ lẽ sinh tử vô thường của cuộc sống. Còn thế nhân như

chúng ta, tâm tư đầy ắp bóng dáng khổ lụy của kiếp người. Lúc được thì vui, lúc

mất thì buồn. Khi gần gũi thì hạnh phúc, khi ly biệt thì đau khổ. Được khen thì

tươi tắn, bị chê thì ủ rũ. Như ý thì hân hoan, trái ý thì cáu giận... Tóm lại,

chúng ta là phàm nhân, rất khó kềm chế lòng ham muốn của con người nên luôn

bị chi phối bởi những cảm giác thương yêu, ghen ghét, lo âu, sợ hãi, buồn sầu,

vui vẻ, khổđau, hạnh phúc ... và làm sao không nao núng tâm thần trước những

biến đổi lớn lao của cuộc sống. Nhưng đã sinh ra làm kiếp con người, dù có

"Trải qua những (một) cuộc biển dâu; Những điều trông thấy mà đau đớn lòng",

dù không đủ khả năng giác ngộ mọi việc như một bậc chân tu, dù phải chân

ngắn bước dài, lên cao xuống thấp, thăng trầm theo buồn vui nhân thế thì chúng

ta cũng phải sống, và sống cho trọn một kiếp trăm năm. Dù vẫn biết bài thi kệ

"Cáo tật thị chúng", thiền sư Mãn Giác có ý nhắn dạy thế nhân về qui luật vận

hành tất yếu của thiên nhiên và cái vòng tử sinh luân hồi của kiếp người. Nhưng

mùa xuân đã qua mà thiền sư vẫn trông thấy một nhành mai ở sân trước. "Mạc

vị Xuân tàn hoa lạc tận; Đình tiền tạc dạ nhất chi mai." Có chăng một cành mai

nở muộn lúc xuân tàn? Hay thiền sư đã nhìn thấy sự trường cửu của mùa xuân

nơi cành mai tàn có thực trước sân chùa? Theo qui luật thiên nhiên thì cành mai

chắc chắn là không có hoa , nhưng sư Mãn Giác đã nhận ra thông điệp của mùa

xuân kế tiếp, của thế hệ kế tiếp nơi cành mai không hoa ấy mà nói thếđể truyền

dạy cho thế nhân thông điệp: Mùa Xuân trường cửu trong vạn vật. Ước mong

chúng ta có thể nhìn thấy sự trường cửu của mùa Xuân trong mọi việc đã qua,

đang xảy ra và sắp đến. Mùa Xuân là mùa cây lá đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa

khoe sắc thắm... Mùa Xuân là mùa của sự sống, là biểu tượng cho sự cát tường

của đời sống.

 

Hoa mai đã đươc tao nhân, mặc khách ưa chuộng bởi cái vẻđẹp thanh khiết cao

quý, hương hoa nhẹ nhàng thanh tịnh. Trời càng lạnh, hoa càng tỏa hương

thơm hơn nên hương của hoa mai còn được gọi là "lãnh hương" (hương lạnh).

Màu vàng của hoa mai là màu tượng trưng cho sự vinh hiển cao sang, màu

tượng trưng và dành riêng cho vua chúa thời xưa. Theo thuyết ngũ hành, thì

màu vàng thuộc hành Thổ, nằm ở vị trí Trung Ương của bốn hướng Đông, Tây,

Nam, Bắc. Màu vàng cũng là màu biểu tượng cho nòi giống Việt. Cho nên

chẳng có gì ngạc nhiên khi dân Việt phuơng Nam chọn mai vàng để đón Xuân,

để đón cái Tết Nguyên đán thiêng liêng, cổ truyền của dân tộc .

 

Nhiều quốc gia trên thế giới có một tập quán rất hay, họ gọi tên quốc gia bằng

tên của một loài hoa như : Hòa Lan là xứ sở của hoa tulip, Bungari là đất nước

hoa hồng, Nhật Bản là đất nước hoa anh đào, lá phong (maple leaf) là biểu

tượng của Canada... Cũng là thảo mộc như bao loài thảo mộc khác nhưng

những hoa, lá đó là biểu tượng của một quốc gia, mang trên mình sứ

mệnh của một đất nước, chuyển tải cái hồn của cả một dân tộc. Cũng với định ý

này, người Nhật đã vinh danh hoa anh đào là quốc hoa (kuni no hana) của Nhật

Bản.

 

Cho Việt Nam, nếu theo tập quán có ý nghĩa, hay và đẹp này thì hoa mai có

thừa đủ mọi tiêu chuẩn để trở thành biểu tượng cho đất nước Việt Nam. Mặc dù

là vậy, ở Việt Nam, hoa mai vẫn chưa được "vinh danh" xứng đáng với tầm vóc

và phẩm chất của một loài hoa cao quý. Có lẽ, mọi người dân Việt nên suy nghĩ

"dùm" cho hoa Mai . Có thể nói, đây là suy nghĩ cho cả dân tộc và đất nước VN

luôn chứ không phải cho riêng hoa mai. Phần của hoa mai thì chắc cũng đã hài

lòng với những tước hiệu như "sứ giả của mùa xuân", " ngự sử", "loài hoa cao

quý", "bạn song hành với thi nhân" ... mà dân Việt đã dành tặng cho hoa mai

qua bao nhiêu thế hệ.

 

Mỗi độ xuân về, ngoài trời tuyết phủ trắng cảnh vật. Đã bao nhiêu cái Tết chẳng

có mùi vị Xuân trôi qua im lặng đến lạnh lùng như khí hậu lạnh lẽo của nơi này.

Giao thừa đến không hay, giao thừa đi chẳng biết. Đôi khi có dịp cùng vài

người bạn thân cạn vài ly rượu mừng Xuân, cũng thấy ấm áp, khuây khỏa vơi

bớt nỗi buồn ngày Xuân xứ lạ đôi chút. Cùng nhau ôn lại quá khứ, nhắc lại

những kỷ niệm đã qua. Chợt nhận ra, đã có quá nhiều thay đổi, khác biệt do

cuộc sống mang lại . Những giấc mơđầy nhiệt huyết thuở nào dường nhưđã bị

chôn vùi sâu dưới lớp bụi thời gian. Nhạt nhoà và mất dần dấu tích theo năm

tháng trôi qua. Buồn lại kéo về tràn ngập, tát không vơi.

 

Đón Xuân nơi xứ lạ. Cành mai giả, màu vàng. Ngoài trời tuyết phủ trắng.

Những giấc mơ muộn màng. Ngày Xuân đem rao bán. Tiếng tơ lòng ai mua ?

 

Nỗi lòng người xa xứ. Chờ cơn gió giao mùa .

 

Thêm một mùa Xuân đang chờ ngoài ngõ, nỗi nhớ quê hương càng thêm da

diếc. Tự nhủ lòng : Thôi đừng buồn nữa tôi ơi! Quê hương còn đó, bè bạn còn

đây. Rồi sẽ có một ngày đất nở hoa, đón xuân về ngắm huỳnh mai nở hoa sân

trước.

 

Cầu nguyện cho mùa Xuân dân tộc và Việt Nam trường cửu trong lòng

người dân Việt ly hương.

 

Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

 

Lý Lạc Long.

 

 ..................................................................................

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn