Nước Do Thái - Israel
Nằm trên vùng Trung Đông cạnh bờ biển xanh Địa Trung Hải, Israel có dân số 8.1 triệu và diện tích 20.770 km2 khi được phân định bởi Liên Hiệp Quốc năm 1947 trên miền đất được chia từ Palestine. Nhưng với chiến dịch vết dầu loang, từ những chiếm đóng sau Trận Chiến 6 Ngày năm 1967 đến bao lấn ép ngang tàng, cả cho xây cất các colonies trên đất Palestine, xong lại rào tường cao che chắn cấm dân Ả-rạp bén mảng! Ngày nay dưới sự kiểm soát của.. móng sắc Israel, lãnh thổ đã lên đến 28.023 km2. Thủ đô Jerusalem với dân số hơn 700.000, dù là tổng hành dinh của các cơ sở công quyền và Nghị Viện, nhưng vẫn không được Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế chấp nhận, do bao cuộc tranh chấp và kỵ hiềm triền miên luôn xẩy ra giữa Do Thái và Palestine. Các tòa đại sứ và những chi nhánh quan trọng của các công ty hàng đầu thế giới thường được đặt ở Tel Aviv.
Haifa, nằm ven Địa Trung Hải cạnh Akko có hải cảng quan trọng nhất, và thành phố lớn thứ ba của Israel. Từ ngọn Mont Carmel cho ngắm nhìn bát ngát xanh Méditerranée và toàn cảnh sắc tươi đẹp tân tiến của Haifa. Nơi đây có dòng tu Stella Maris /Sao Biển, Đức Bà Maria, là một chốn hành hương trên "Miền đất ba lần thánh hoá Do Thái" của các tín đồ 3 tôn giáo lớn Do Thái, Kitô và Hồi giáo.
Qumrân Vào năm 1947, cậu trẻ du mục Hassan khi mang đàn dê cừu đi ăn cỏ trên khu đồi núi hoang gần Biển Chết, đã vô tình khám phá ra một hang động với nhiều chiếc hũ, bình bằng đất nung, cất giữ nhiều cuộn bản thảo và tập giấy còn trong tình trạng khá tốt đẹp nhờ khí hậu khô nóng vùng sa mạc. Tất cả được ghi chép cẩn thận bằng bút mực các đoạn Kinh thánh Do Thái trên loại giấy chế biến từ vỏ cây thủy trúc papyrus và da thú mài mỏng.
Ngày nay Masada vẫn luôn là niềm kiêu hãnh của dân tộc Do Thái, một biểu tượng bất khuất cho ước mong nung nấu qua gần 2000 năm tản mát trên khắp cùng thế giới, là được về nguồn trong tự do, độc lập. Đó là những khát khao, là một kim chỉ nam đã dẫn dắt dân tộc lạc loài, về quy tụ trên phần Đất Hứa, là món quà quý báu dành cho tuyển dân của Đấng Yahweh từ 40 thế kỷ xưa. Khi thăm Masada, du khách theo những hoài niệm lịch sử, ngoài lòng thương cảm dành cho nhóm người tử thủ cổ thành, đều thấy vui theo không khí tươi trẻ với những tiếng cười rộn rã và hình ảnh rạng ngời của những cô cậu thanh thiếu niên đang làm nghĩa vụ quân sự, mà hàng hàng lớp lớp hân hoan qua lại gìn giữ thành xưa.
Israel có sức mạnh quân sự hùng hậu nhất vùng Trung Đông, với những trang bị vũ khí tối tân thuộc hàng đầu thế giới. Các binh sĩ quân đội đều được huấn luyện thật tinh tường, do số đông nhân sự không còn là yếu tố quan trọng để đương đầu khi cần thiết nữa. Những gia đình người gốc Do Thái sống nơi hải ngoại nói chung rất nghiêm túc, chăm chú việc giáo dục con em theo tinh thần truyền đạt từ cha ông. Họ giữ lấy nguồn, trong cách sống và hành đạo. Nhiều cô cậu trẻ hải ngoại vẫn dành khoảng một năm, trước khi vào đại học hay sau khi tốt nghiệp, để trở về quê hương đất thánh tiền nhân. Họ ghi danh thi hành các nghĩa vụ đặc biệt dành riêng, như những khóa học bổ túc thêm về lịch sử, nguồn cội, giống nòi, văn hóa, chiến lược.. Rồi được mặc quân phục, mang bottes de saut, hãnh diện có mặt trên khắp miền đất nước. Giống như những người dân sống tại quê hương, mà ở tuổi 18, các cô trong 2 năm, các cậu 3 năm, đều có bổn phận phải khoác áo treillis.
Lịch
sử đất nước Do Thái là một kinh sử, một trường thiên bi hùng ca với những diễn tiến trải dài qua hơn 4000 năm nhiều khăn khó. Sách Thánh Hebrew đã ghi chép sự giao ước giữa Đức Chúa Trời Yahweh và dân tộc Do Thái, qua tổ phụ Abram /Cha Cao Cả của họ -sau được Chúa thay bằng tên Abraham /Cha của các Dân Tộc. Sang đời con, rồi cháu của Abraham là
Jacob, mà Đức Yahweh cũng đổi tên thành Israel "May God prevail". Người
Do Thái đã luôn sinh sống tại vùng Đất Thánh Canaan/Palestine Israel này.. Ngoài một thời điểm, do nạn đói kém đã phải dẫn dắt nhau qua kiếm
sống bên Ai Cập. Họ sinh sôi nẩy nở mau chóng để trở thành một sắc dân
quan trọng, nhưng rất bị bạc đãi bởi vương quyền các pharaons cai trị, đẩy họ xuống hàng nô lệ, phu tù cơ cực. Đến khoảng 400 năm sau, khi nhà tiên tri Moses, được ơn Đức Yahweh, đã giải thoát và dẫn dắt nhóm tuyển dân của Chúa vượt Biển Đỏ..
Rồi lang thang suốt 40 năm trong sa mạc Sinai trước khi được đặt chân đến miền Đất Hứa Canaan. Miền đất thênh thang rộng mà theo mục Genesis và Joshua của
kinh sách Cựu Ước, bao gồm từ đất Ai Cập cạnh sông Nile đến toàn xứ Lebanon, từ Địa Trung Hải sang ven sông Euphrates xứ Iraq, luôn các nước Syria, Jordan, cả vùng Saudi Arabia ngày nay. Theo thời cuộc, Israel chỉ giữ được một phần rất nhỏ của miền đất được ơn ban tặng khi
xưa, sau khi dùng đủ ngang ngược
để tranh dành với một Palestine yếu thế.
DISAPPEARING PALESTINE. 5 MILLION PALESTINIANS ARE CLASSIFIED AS REFUGEES BY THE UNITED NATIONS
Khi
nói đến dòng giống dân tộc Do Thái, không ai có thể phủ nhận sức chịu
đựng bền bĩ, kiên trường và lòng quyết tâm bảo tồn nguồn cội, qua suốt nhiều ngàn năm lịch
sử lắm chao đảo nhọc nhằn của họ. Một người bạn Do Thái của gia đình Huyền Anh đã kiêu hãnh bảo: Chúng tôi như giống chim phượng hoàng
vậy, luôn hồi sinh từ tro bụi /Like a phoenix reborn, growing from the ashes.
Ông Cohen vẫn tự hào với bao điêu đứng mà dân tộc ông phải gánh chịu, xem như là những thử thách gay go cần phải vượt qua, để chứng tỏ họ luôn
xứng đáng là tuyển dân của Thượng Đế, để phải luôn giữ gìn miền Đất Thánh vốn là một ân sủng từ trời. Từ
những thế kỷ nô tù bên Ai Cập cho đến ngày về miền đất cổ lắm gian nan. Rồi họ đã phải chống trọi nào với dân Philistine xâm lược. Qua đời vua David huy hoàng, sang đến Salomon đã cho xây dựng đền
thánh vĩ đại
Jerusalem.. Được khoảng 400 năm thì đất nước bị xẻ đôi thành hai xứ Samaria và Judah, đền thiêng bị tàn phá. Tiếp sau là lắm cuộc trở về tái
tạo dựng giang sơn.. Song lại bị hết Assyria đến Babylon chiếm cứ.. Chuỗi dài đau thương tiếp nối vẫn là những cuộc chiến điêu tàn và đô hộ. Israel cũng đã từng bị Ba Tư, Hy lạp, La Mã xâu xé.. Người Do Thái bao lần bị xua đuổi khỏi phần đất thiêng của họ. Sang đến thời lừng lẫy
của Hồi giáo, phải gánh chịu những cuộc Thập Tự Chinh đầy máu lửa để tranh dành Jerusalem.. Tiếp đến, miền Đất hứa Canaan dành riêng cho Do Thái lại bị cưỡng đoạt bởi Đế chế Byzantine.. Rồi mất vào tay Đế quốc Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ năm 1517..
Đến
những năm 1880, từ khắp nơi trên thế giới đã phát động làn sóng trở về nguồn của dân Do Thái, do ở xứ nào họ cũng cảm thấy bị kỳ thị
và khoảng cách biệt khó dung hòa, cộng thêm lòng nung nấu thương nhớ quê
hương vẫn được gìn giữ vững vàng, và truyền đạt không suy suyển qua biết bao thế hệ tiếp nối. Những người Do Thái khá giả khởi sự đầu tư, thu mua những điền sản trên miền đất tổ từ người Ả-rạp Ottoman, ngày càng to rộng để lập các trang trại, cơ sở và nơi định cư sinh sống.. Đây cũng là thời điểm khởi đầu cho những lấn cấn giữa "..hai sắc dân không bao giờ chấp nhận nhau, như mang sẵn trong máu huyết một mối thù truyền kiếp..".
* Rất tình cờ trên 2 góc phố tại Jerusalem, nét hồn nhiên của trẻ em Do Thái và Palestine
Ông Theodor Herzl từ Austria, năm 1896 khởi xướng Phong Trào Zion cho việc thành lập một Quốc gia Do Thái trên
miền đất thánh Canaan của tiên tổ, đang thuộc Palestine nhưng do những xao động chính trị, nên Liên
Hiệp Quốc trao quyền cho vương quốc Anh quản
trị. Được Anh Quốc ủng hộ, và theo đà tiến, làn sóng dân Do Thái quay trở về miền đất xưa ngày càng đông đảo, nhất là sau Thế Chiến I. Và những cuộc bạo động giữa Do Thái và Palestine ngày càng thêm nghiêm trọng.. Rồi với sự bành trướng của Chủ nghĩa Nazism cùng chính sách truy diệt dân Do Thái bởi Adolf Hitler, từ những năm 1930 đến hết Thế Chiến II đã lấy đi sinh mạng, được định đoán là của khoảng 6 triệu người
trên khắp phần đất Âu châu, mà chỉ riêng xứ Poland đã có đến gần 3 triệu nạn nhân Do Thái bị xóa sổ. Sự kiện này đã gây thương cảm từ nhiều
cộng đồng thế giới, khiến nhu cầu để có một phần đất dành cho sắc dân lạc loài Do Thái lập nước càng thêm chính đáng.
Ngày
nay, con chim phượng hoàng vươn lên từ đám tro tàn là một thế lực ngầm dẫn đầu thế giới, với ảnh hưởng rộng lớn trên các cường quốc nơi họ sinh sống. Những người thuộc gốc Do Thái nắm giữ trong tay sức mạnh kinh
tế, thương mại, ngân hàng, chính trị.. cùng bao lãnh vực quan trọng khác. Rất tự hào
khi thể hiện và khẳng định nguồn cội mình, nên chỉ cần một chút gì antisemite là cả đại gia đình diaspora Do
Thái khắp 4 phương trời ồn ào lên tiếng ngay. Người Do Thái dễ gây e ngại vì những khác biệt của dân tộc họ với các cộng đồng bạn chung quanh. Thường thì họ giao hảo vì công việc và quyền lợi, sự cách biệt tạo ra đều do việc thực hành nhiều quy củ sống rất riêng, dựa theo các
lề luật nghiêm ngặt từ những sách thánh của Do Thái
giáo.
*Núi Zion, mộ vua David toàn tài và vĩ đại qua
40 năm trị vì * Một trường chuyên, giảng dậy theo tinh thần đạo giáo chân truyền
Thí dụ như trong một chuyến du thuyền dài, gia đình HA gặp ông bà Cohen, thuộc giới professional, rất lịch lãm, do nghe qua accent français rất "à la Québecoise" là biết nhau đều từ Montréal, nên truyện trò đi chơi chung vui vẻ. Nhưng khi nhắc đến Palestine thì ông.. đùng đùng dè bỉu miệt thị, làm bà phải can Ô..thôi mà,
thôi mà.. mãi! Rất kỹ càng, họ chỉ dùng thức ăn kosher đã được làm phép -rồi con thú phải mổ trút máu thế này.. thịt phải được ngâm trong nước 1/2 giờ, mang ra rắc muối, rửa lại thêm 2 lần nữa, nấu phải thật chín thế nọ.. Vì
vậy ông bà không bao giờ đụng đến các món thịt cá của buffet hay theo menu chung. Họ tránh thịt heo, loại có cánh bay, kỵ thú có móng cẳng dính nhau và hải sản, lại không ăn gì nấu chung với sữa.. Chỉ dùng cá loại to có vi có vẩy. Ông bà cũng yêu cầu manager là cá phải được nấu trong những nồi soong mới, hay chưa được dùng nấu gì phạm luật Do Thái. Ngay cả bánh mì, bánh ngọt, rượu hay thức uống của
họ cũng phải thế này chứ không thế khác. Có lần thấy
hai ông bà đang xơi miếng phi-lê cá, HA vô tình bảo là loại catfish này
Việt Nam xuất cảng nhiều lắm. Làm ông bà trố mắt nhìn nhau rồi chạy vội.. ra kia! Sau đó tìm manager than phiền là catfish thuộc loại da trơn, sao dám ghi tên là whitefish!! Và đây là chỉ một phần nhỏ trong các điều luật khuyên răn và cấm kỵ của sách thánh Torah, Mishna cho thực
phẩm. Chưa kể đến cách sống và luật lề hành đạo theo quy củ rất cổ xưa,
đặt để từ nhiều ngàn năm trước, mà ông bà Cohen cho là HA.. có vẻ ham hiểu biết, bèn
hết lòng giảng dậy! -Thế nên khi ngồi bàn chung với ông bà mà vợ chồng mình cứ tà tà thưởng thức nào lobster, oyster, escargots à l'ail, scallop.. đến steak medium rare, thì cũng ngại lắm! Khi nghe nhiều người cho nhận xét là dân Do Thái.. này nò và khó chơi! HA vẫn bảo thật ra cũng đúng thôi, vì ngoài những xã giao thông thường, chính họ cũng chỉ muốn thân mật qua lại với những kẻ tương đồng như trong gia
đình, thân quyến, bè bạn quen giữa cộng đồng của họ. Ông bà Cohen do thích hải trình đặc biệt và thuộc dạng cởi mở lắm nên mới ra ngoài lề tí xíu như vậy!
Nằm trên vùng Trung Đông cạnh bờ biển xanh Địa Trung Hải, Israel có dân số 8.1 triệu và diện tích 20.770 km2 khi được phân định bởi Liên Hiệp Quốc năm 1947 trên miền đất được chia từ Palestine. Nhưng với chiến dịch vết dầu loang, từ những chiếm đóng sau Trận Chiến 6 Ngày năm 1967 đến bao lấn ép ngang tàng, cả cho xây cất các colonies trên đất Palestine, xong lại rào tường cao che chắn cấm dân Ả-rạp bén mảng! Ngày nay dưới sự kiểm soát của.. móng sắc Israel, lãnh thổ đã lên đến 28.023 km2. Thủ đô Jerusalem với dân số hơn 700.000, dù là tổng hành dinh của các cơ sở công quyền và Nghị Viện, nhưng vẫn không được Liên Hiệp Quốc và cộng đồng quốc tế chấp nhận, do bao cuộc tranh chấp và kỵ hiềm triền miên luôn xẩy ra giữa Do Thái và Palestine. Các tòa đại sứ và những chi nhánh quan trọng của các công ty hàng đầu thế giới thường được đặt ở Tel Aviv.
Tel Aviv, thành
phố được thành lập chỉ hơn 100 năm trước, rất tân tiến tươi đẹp ven Địa
Trung Hải dập dình sóng vỗ, được sát nhập với phố cổ Jaffa 4000 năm tuổi, cho tổng số dân lên đến 4 triệu. Tel Aviv là trung tâm kinh tế, nghiên cứu, thương mại và phát triển của
Israel, cũng như là một Silicon Valley do tầm quan trọng của kỹ nghệ tin học.
* Phố cổ Jaffa * Chợ souq đầy sắc mầu và hương vị
Tel Aviv vui đẹp tràn đầy sức sống, rất được yêu chuộng bởi giới trẻ với tên Thành phố không ngủ. Cả danh tặng The White City,
do hầu hết các cao ốc, nhà cửa đều mang mầu trắng thanh thoát, thiết kế
bởi những kiến trúc sư nổi tiếng trên nhiều xứ Âu châu ngay từ làn sóng hồi hương đầu tiên. Không như Jerusalem và Bethlehem mang nhiều thánh tích, Tel Aviv chỉ có tượng con cá voi lớn bằng đồng. Theo kinh thánh Cựu Ước, ông Jonas vì bất tuân lời Chúa Trời nên bị phạt. Một con
cá voi khổng lồ đã nuốt ông, giam giữ 3 ngày trong bụng, rồi nhả ông ra
trên bờ biển Méditerranée cận kề.
*Cổ mộ, với niềm tin là ngày sau Đức Yahweh sẽ cất họ về trời từ hình cốt còn nguyên vẹn, người Do Thái không hỏa
táng
Akko/Acre thành cổ với hải cảng lịch sử đã chứng kiến những cuộc Thập
Tự Chinh lẫy lừng, mà nhiều dấu tích vẫn còn tồn tại. Trong kinh sách Tân Ước, Akko ngày cũ mang tên Ptolemais đã là chốn dừng chân cuối cùng của sứ đồ Paul khi trên đường đến Jerusalem, rồi bị bắt giam và hành xác. Sứ
đồ Paul /Saul of Tarsus, nguyên công dân Do Thái-La Mã, nhưng nhờ hồng ân cách riêng của Thiên Chúa, từ lúc đang bách đạo và truy giết các tín
hữu đầu tiên của Chúa Jesus, đã trở thành người hăng say truyền bá Kitô giáo nhất trong các môn đệ. Akko "thành phố của vương quốc Thập Tự Chinh Jerusalem thời trung cổ", với bờ biển nước sâu và hải cảng quan trọng, đã
từng rơi vào tay quân đô hộ theo bao nổi trôi của vận nước tiền nhân.. Rồi chính thức nằm trong vùng đất được dành cho Israel năm 1947, đã gây
bất bình không ít cho Palestine.
Ngày
nay, Akko thu hút du khách bởi nét lạ và đẹp của các kiến trúc và văn hóa các nền văn minh khác biệt qua những thế kỷ bị chiếm cứ. Nào tu viện
kiên cố như một lâu đài từ thế kỷ 12. Đền thờ Hồi giáo theo
kiến trúc Byzantine to lớn nhất Israel. Dẫy tường lũy phòng thủ bằng gạch đá vững vàng vây bọc chung quanh khu phố cổ. Rồi cả một thành trì to rộng, vững trải với nhiều phòng ốc, hào rộng, hầm sâu, tháp
cao.. thật bề thế.
Haifa, nằm ven Địa Trung Hải cạnh Akko có hải cảng quan trọng nhất, và thành phố lớn thứ ba của Israel. Từ ngọn Mont Carmel cho ngắm nhìn bát ngát xanh Méditerranée và toàn cảnh sắc tươi đẹp tân tiến của Haifa. Nơi đây có dòng tu Stella Maris /Sao Biển, Đức Bà Maria, là một chốn hành hương trên "Miền đất ba lần thánh hoá Do Thái" của các tín đồ 3 tôn giáo lớn Do Thái, Kitô và Hồi giáo.
Tín
hữu đến đỉnh núi
cao thanh thoát, hoặc cầu nguyện trong thánh đường Đức Bà, hay nghiêng
mình trước đài tượng ngài tiên tri rất được tôn kính Elias. Thăm bản doanh của Centre Mont Carmel, nhằm đào tạo nữ tu cho các chương trình bác ái trên những nước còn kém mở mang, song song với tổ chức Caritas Lòng yêu người/Charity,
theo chủ trương của Kitô giáo là phải luôn chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh. Caritas đã có mặt ở trên 198 xứ sở khắp hoàn cầu, là nguồn an ủi lớn lao cho những phận người nhiều khăn khó.
Haifa rất hiện đại, nhà cửa và các kiến trúc xinh tươi xem thật
mát mắt, cũng là tổng hành dinh của giáo phái Baha'i Faith /Người noi theo ánh sáng của Thượng Đế,
thành lập năm 1863 bởi giáo chủ Bahau'u'llah tại Iran. Với số tín đồ
hơn 7 triệu trên nhiều quốc gia, người theo đạo Baha'i tin vào sự hòa hợp của các tôn giáo lớn tôn thờ Thượng Đế, và sống sao cho tốt đẹp làm
vừa lòng Đấng Tối Cao. Haifa có số dân Ảrạp-Palestine rất đông đảo, theo Hồi giáo và cả Kitô giáo. (*xứ Lebanon trên vùng Trung Đông có 35%
dân theo Thiên Chúa giáo).
*Terrace of the Baha'i Faith /The Hanging Gardens of Haifa
Beit She'an, một trong những thành phố xưa cổ nhất vùng Trung
Đông. Do có địa thế nằm trên nhiều đường thông thương thiết yếu, cạnh thung lũng sông Jordan mượt mà, lại được cả nhiều
nguồn nước ngầm lẫn các rạch suối trong tươi mát, nên theo vận nước mong manh Beit She'an đã phải gánh chịu sự chiếm cứ của các đại cường quốc. Hai vị vua uy quyền nhất trong lịch sử Do Thái David và Salomon cũng đã từng đặt bản doanh tại đây. Những vết tích quan trọng nhất còn tồn tại trên Beit She'an đều mang dấu ấn của từng thời điểm bị trị, nổi bật nhất là với đế chế La Mã. Rất hùng mạnh, khi đem quân xâm chiếm đến đâu La Mã đều cho thiết dựng nhiều đền đài thật vĩ đại, biểu tượng cho nền văn hóa, mỹ thuật, nghệ thuật cao độ, mà nét huy hoàng qua nhiều thiên niên kỷ vẫn còn được chiêm ngưỡng trên nhiều xứ sở trời Âu. Ngày nay Beit She'an giữ chân du khách qua nhiều trung tâm chăm sóc sức khỏe, tịnh dưỡng, thư giãn với khung cảnh trong lành, đồi núi xanh tươi, hồ xinh suối mát..
*Tàn tích La Mã, hí trường cho 7000 khán giả & nhà tắm nóng công cộng với thiết kế các lò nấu nước xông hơi..
Qumrân Vào năm 1947, cậu trẻ du mục Hassan khi mang đàn dê cừu đi ăn cỏ trên khu đồi núi hoang gần Biển Chết, đã vô tình khám phá ra một hang động với nhiều chiếc hũ, bình bằng đất nung, cất giữ nhiều cuộn bản thảo và tập giấy còn trong tình trạng khá tốt đẹp nhờ khí hậu khô nóng vùng sa mạc. Tất cả được ghi chép cẩn thận bằng bút mực các đoạn Kinh thánh Do Thái trên loại giấy chế biến từ vỏ cây thủy trúc papyrus và da thú mài mỏng.
Niên đại của các Dead Sea Scrolls /Qumrân Scrolls tìm
thấy thêm trong tổng cộng 11 động đá sau đó, được định đoán là khoảng
từ 3 thế kỷ trước công nguyên đến khi bị bỏ phế vào những năm 68, thời kỳ nổi dậy chống đối sự kiềm kẹp dưới ách La Mã của dân Do Thái. Theo các nhà chuyên môn, Qumrân từ hơn 2000 năm trước là một phần đất hoang dã, nơi cư trú biệt lập và hành đạo của một giáo phái nhỏ với khoảng trên dưới 100 người. Họ sống khắc khổ, xa lánh thế tục, và nhiều người qua nhiều thế hệ đã dành toàn
thì giờ để chép tay, sao ra nhiều bản của các bộ kinh sách cổ Do Thái.
Ngày nay, có tất cả 870 cuộn bản thảo được khôi phục, chỉnh đốn lại từ
vô vàn các mảnh giấy bồi papyrus lẫn da thuộc xưa. Đa số được viết bằng chữ Hebrew, cả chữ Aramean là ngôn ngữ thông dụng trên phần đất Canaan /Palestine, chính Chúa Jesus cũng chỉ dùng tiếng Aramean, và một
phần nhỏ
các bản thảo dùng chữ Hy Lạp. Đáng quý nhất là cuộn kinh Hebrew, viết từ thế kỷ II TCN, trên 17 miếng da mỏng được khâu kết liền nhau, dài đến 7.3 thước. Và điều quan trọng là những cuộn bản thảo Qumrân có số tuổi nhiều thế kỷ trước cả những sách thánh Do Thái /Tanakh Hebrew Bible cổ xưa nhất được biết đến ngày nay, đã giúp các sử gia, nhà khảo
cổ và kinh thánh học rất nhiều. Những cuộn Bản thảo Qumrân còn được xem như là khám phá quan trọng nhất thế kỷ XX của ngành khảo cổ..
Biển Chết Dead Sea, Salt Sea nằm ven lãnh địa của Israel và Jordan, có diện
tích 810 km2 với chiều dài 75 km, rộng khoảng 18 km và độ sâu
nhất gần 400 mét, nhận nước từ sông Jordan. Biển Muối là phần đất thấp nhất địa cầu, nằm dưới mực nước biển 427 thước. Nếu nước
các biển thường có độ mặn từ 2% đến 4%, thì ở Biển Chết nước mặn chát, có thể gây thêm thương tích nơi các vết lở da, hay khi lọt vào mắt, do độ mặn 27,5% (275 gr/lít) cả có mùa lên đến 31.5%. Tỉ khối của Biển Muối là 1240 kg.m-3 nên mọi người đều nổi.. lình bình trên
sóng nước, không ai có thể.. chết chìm được nơi đây! Cũng không một sinh vật hay rong rêu nào sống được trong nồng độ muối quá cao này, cho tên Biển Chết.
Với
những thay đổi trong bầu khí quyển, Biển Muối mỗi năm xuống thấp khoảng
1 thước, và trong vòng 50 năm nay đã mất đi 1/3 diện tích. Biển
Muối từ nhiều ngàn năm qua đã thu hút khách viếng. Kinh Cựu Ước cho biết vua David vĩ đại của dân Do Thái đã đặt hành dinh, rồi cả vua Herod
the Great sau này cũng
dừng chân, cho xây thành Masada trên sa mạc gần bên. Nước
Biển
Chết chứa đến 21 khoáng chất cho nhiều công dụng,
trong đó có 12 chất là đặc sản chỉ riêng nơi đây. Từ ngàn xưa người ta đã dùng chất trơn keo đặc từ biển để ướp xác khô mômi. Chất bùn đen
cũng có nhiều khả năng bồi dưỡng da. Rồi những minerals, potassium, magnesium, sodium, calcium chloride.. có y tính và dược liệu khả quan cho sức khỏe, giúp chữa trị nhiều bịnh ngoài da, dị ứng, tê thấp.. Ngành
mỹ phẩm cũng dùng nhiều khoáng chất của Biển Muối để chế tạo nên nhiều
loại kem dưỡng da, làm đẹp.
Masada, rất nhiều phim ảnh sách
truyện đã kể lại trang sử đầy bi hùng và lắm máu lửa đau thương của thành trì Masada.
Biểu
tượng bất khuất, kiên trường của người Do Thái nằm ven sa mạc Judea hướng ra Biển Chết, vững vàng tọa lạc trên các bờ đá của một ngọn đồi núi cao 450 mét với những vách dốc
thẳng đứng hiểm trở. Masada là một pháo đài kiên cố xây dựng từ trước công nguyên bởi vua Herod I La Mã trên miền đất ban từ Thượng Đế Yahweh.
Vào
năm 70, để trả lời cho những nổi lên chống đối chính quyền đô hộ của dân Do Thái, La Mã xua quân sang Jerusalem tàn phá đền thánh quốc bảo được xây dựng lại lần thứ hai, giết đuổi dân quân Do Thái, khiến họ phải
chạy loạn tản mát khắp nơi. Tuy chiến thắng nhưng La Mã đã phải đối mặt
với một dân tộc kiên trường, mà lắm người quả cảm đã thà chết chứ không
đầu hàng trong tủi nhục. Năm 72, kiệt
tướng Flavius Silva chỉ huy một đội quân hùng mạnh gồm 15.000 binh lính, cho vây bọc, quyết đánh cho tan tành để chiếm bằng được thủ phủ cuối cùng của nhóm 973 người yêu nước đến bất trị, đang cương quyết giữ
pháo đài thành lũy Masada, thề chống chọi với quân xâm lược đến giọt máu cuối cùng. Qua nhiều ngày hãm thành, cuối cùng tướng Flavius Silva đã dùng
nhiều mưu kế và các kỹ thuật quân sự, các vũ khí
tinh nhuệ và vũ bão nhất để tấn công nhóm dân lẻ loi cố thủ trên Masada.. Và
trong hoàn cảnh đớn đau cùng tuyệt vọng, những kẻ bất khuất đã không còn sự chọn lựa nào khác. Họ đã chỉ muốn sống như những con người tự do.
Không đầu hàng, không khuất phục. Và trong tự do họ cũng cùng nhau tìm cái chết. Khi đoàn quân chiến thắng hùng hổ tiến vào tử thành, chỉ thấy còn 2 phụ nữ và 5 trẻ nhỏ thoi thóp sống.
Ngày nay Masada vẫn luôn là niềm kiêu hãnh của dân tộc Do Thái, một biểu tượng bất khuất cho ước mong nung nấu qua gần 2000 năm tản mát trên khắp cùng thế giới, là được về nguồn trong tự do, độc lập. Đó là những khát khao, là một kim chỉ nam đã dẫn dắt dân tộc lạc loài, về quy tụ trên phần Đất Hứa, là món quà quý báu dành cho tuyển dân của Đấng Yahweh từ 40 thế kỷ xưa. Khi thăm Masada, du khách theo những hoài niệm lịch sử, ngoài lòng thương cảm dành cho nhóm người tử thủ cổ thành, đều thấy vui theo không khí tươi trẻ với những tiếng cười rộn rã và hình ảnh rạng ngời của những cô cậu thanh thiếu niên đang làm nghĩa vụ quân sự, mà hàng hàng lớp lớp hân hoan qua lại gìn giữ thành xưa.
Israel có sức mạnh quân sự hùng hậu nhất vùng Trung Đông, với những trang bị vũ khí tối tân thuộc hàng đầu thế giới. Các binh sĩ quân đội đều được huấn luyện thật tinh tường, do số đông nhân sự không còn là yếu tố quan trọng để đương đầu khi cần thiết nữa. Những gia đình người gốc Do Thái sống nơi hải ngoại nói chung rất nghiêm túc, chăm chú việc giáo dục con em theo tinh thần truyền đạt từ cha ông. Họ giữ lấy nguồn, trong cách sống và hành đạo. Nhiều cô cậu trẻ hải ngoại vẫn dành khoảng một năm, trước khi vào đại học hay sau khi tốt nghiệp, để trở về quê hương đất thánh tiền nhân. Họ ghi danh thi hành các nghĩa vụ đặc biệt dành riêng, như những khóa học bổ túc thêm về lịch sử, nguồn cội, giống nòi, văn hóa, chiến lược.. Rồi được mặc quân phục, mang bottes de saut, hãnh diện có mặt trên khắp miền đất nước. Giống như những người dân sống tại quê hương, mà ở tuổi 18, các cô trong 2 năm, các cậu 3 năm, đều có bổn phận phải khoác áo treillis.
Palestine
có diện tích chỉ được 6520 km2 để dung dưỡng gần 5 triệu dân, là một dân tộc qua bao thế kỷ đến hiện tại luôn bị chèn ép, bị cố tình lãng quên trên bình diện quốc tế, với những bất công từ cách hành xử đầy bạo
lực bởi con chim phượng hoàng luôn giương móng sắc Israel, đã gây nhiều ái ngại và cảm thông từ những ai còn dành chút quan tâm cho dân tộc bị giam lỏng giữa phần đất đã thuộc quyền của chính họ, trước khi có
bàn tay của Ủy Hội Quốc tế và.. bàn chân mạnh bạo của Do Thái chen vào.
Ethnic Cleansing of Palestine
Một phần đất hẹp. Hai lãnh thổ, hai quốc gia với chính quyền, và vài vùng được đặt tên Liên Bang Thống Nhất, nhưng dưới bóng Israel, Palestine ngày càng bị co rút và cô biệt lập. Qua
chiêu bài để tự bảo vệ, người Do Thái đã thật quá quắt, dùng đủ cách để chèn đạp dân Palestine, cả với những khu định cư cho kiều bào hồi hương, được ngang nhiên xây cất trên đất Palestine. Nhất là "bức tường ô nhục mới" ngạo nghễ cao đến 8 thước, dài 730 km với các tháp canh và đồn kiểm soát gắt
gao đến mức khó tưởng.. Nhưng lại được nhắm mắt bỏ qua hay chỉ đong đưa vài câu chiếu lệ, bởi các nước bạn vẫn luôn e dè sức mạnh Do Thái trên nhiều lãnh vực quan trọng khắp nơi.
Những uẩn ức dồn nén của người dân yếu thế Palestine trước Do Thái được thể hiện qua
nhiều hành động thật đau thương. Từ
những chống trả máu lửa tương tàn qua các cuộc khủng bố, những quả bom
người tung nổ ở nơi đông đảo, phố chợ, xe bus.. nhằm mục đích "giết dân Do Thái đáng thù hằn càng nhiều càng tốt", để gây tiếng vang tuyệt vọng của Palestine đi khắp cùng thế giới, đến kiểu ném đá intifadah.. Nhưng
ngày nay không còn hiệu nghiệm nữa, một
David nhỏ đương đầu cùng gã khổng lồ Goliath với chiếc nỏ gỗ
và trí thông minh! Nhiều vị nguyên thủ các cường quốc, cả các ngài Giáo Hoàng, mà gần đây nhất là ngài Francis, đã luôn ra sức cố gắng nhằm dung hòa mối liên hệ rất tử thù máu đổ Israel-Palestine.
Trên truyền hình tuần qua, sau cuộc thăm miền Đất Thánh Israel, lại thấy ngài Giáo Hoàng Francis tươi cười đón tiếp theo lời mời rất chí tình, hai lãnh tụ Shimon
Peres và Mahmoud Abbas tại Tòa Thánh Vatican. Để
tìm giải pháp mang lại an bình cho hai dân tộc đang chia chung phần đất Ba lần Thánh Hóa, cũng như bao hiềm khích luôn đào sâu mối chia rẻ quá trầm trọng này. Rồi cả ba vị cùng cầm xẻng vun đất trồng Cây Olive Hòa Bình. Ngài Francis cũng đã dùng bao lời lẽ nhắn nhủ rất ân cần, tâm
huyết về công bằng, bác ái, tôn trọng, vị tha.. Mỗi bên hãy cùng nhau nhân nhượng để tiến đến hòa bình, an ninh chung.. -Thật lý tưởng. Nhưng
các bản tường trình qua nhiều phương tiện truyền thông, thấy khi thì hồ hởi lời mong ước, lúc lại ngán ngẩm kêu lên đây bổn cũ soạn lại.. Cả với lời bình là cây olive vốn có thể sống tới
mấy
ngàn
năm, để
cố chờ ngày Israel-Palestine hòa hợp.
Số
người theo Thiên Chúa giáo sống trên
đất Do Thái ngày càng thấp, nhất là ở những thành phố đông dân Ảrạp như Nazareth. Lại có cả một làn sóng người rủ nhau di dân, mong được sống bình an, do luôn gặp khó khăn giữa rừng người theo Do Thái giáo và Hồi giáo, và qua các
đụng chạm thường nhật..
Như hình trên, gần Basilica of the Annunciation, mà
từ trước bình minh đến tận đêm khuya, mỗi ngày 5 lần, loa phóng thanh của đền Hồi vẫn sang sảng răn đe và kêu gọi tín đồ cầu nguyện.. Rồi lời kinh tiếng khấn của "chính đạo" cứ rền vang khắp
phố.
Trong
chuyến hành hương cùng khám
phá cảnh đẹp và tìm hiểu thêm về hai dân tộc Do Thái - Palestine, những người chung đoàn đều không tiếc lời cảm phục cho ý chí cùng sự kiên trường trong muôn ngàn khăn khó lịch sử của dân tộc Do Thái, thật như con chim thần thoại thoát ra từ đám tro tàn.. Nhưng cũng đều bất bình trước móng nhọn của chính con chim phượng hoàng này qua đường lối đầy bạo lực, như muốn tàn diệt sắc dân đang phải sống biệt lập, dưới sự kiểm soát đến bất nhân của một bạo quyền mà chính Palestine đã phải chia sẻ đất đai để Do Thái lập nước.
Qua mục Wikipedia và Bible hay tìm hiểu, thấy nguồn gốc mối liên hệ Israel-Palestine, theo sách Cựu Ước đoạn Genesis 25:20
"... Isaac
prayed to the Lord on behalf of his wife, because she was barren; and the Lord answered him and Rebekah his wife conceived. But the
children struggled together within her; and she said, “If it is so, why then am I this way?”
So she went to inquire of the Lord. The Lord said to her: Two nations are in your womb; And two peoples will be separated from your body; And
one people shall be stronger than the other; And the older shall serve
the
younger..."Tóm tắt bản dịch như sau : "..
Hai dòng giống dân Do Thái và Palestine vốn là anh em song sinh, được Đức
Yahweh ban cho bà Rêbêca và ông Ysắc - khi bà thì vô sinh và ông đã lớn tuổi, nên ông Ysắc hết lòng cầu khẩn Ngài cho bà được hoài thai. Đức
Yahweh chấp thuận và phán cùng bà "Hai
nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ". Đến ngày nàng sanh nở,
đứa ra trước đỏ hồng, lông cùng mình như một áo tơi lông, đặt tên là Êsau. Kế
em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Êsau nên đặt tên là Jacob". Lời trên
nói về hai dân tộc của hai nước
tức nhà nước Israel và Palestine ngày nay. Jacob sau được đổi tên là Israel tức nhà nước Israel bây giờ, còn dân Palestine ngày nay thuộc chủng tộc của Êsau". Như vậy nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh ở Israel và Palestine, còn gọi là Cuộc chiến tranh của anh em song sinh không đội trời chung..".
Người Do Thái vốn hết lòng tôn thờ, hết tâm trí sùng bái Đấng Yahweh cùng tôn trọng từng lời thánh chỉ. Mà "hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà
ra". Chẳng
biết lòng bà Rêbêca ra sao mà hai thứ dân con bà.. lôi thôi quá. Đã đánh nhau từ trong bụng mẹ lại gia truyền quốc nối đến mấy ngàn năm sau
chưa chút nguôi ngoai. Nên chiếu theo kinh thánh Cựu Ước, thì hòa bình.. bị khó!
Vậy
cặp anh em song sinh
Palestine-Israel nào biết ra sao.. Nhưng trong niềm ước ao một hòa bình, một an lành cho hai dân tộc cùng mang mối.. hận lòng, và cho cả toàn thế giới, mọi người chỉ còn
biết hy vọng. Dù niềm hy vọng lắm khi chỉ là một chiếc bánh vẽ mà thôi.
*** *** ***
Gửi ý kiến của bạn