Vùng đất chết
Trần Ngọc Toàn
Từ nhỏ đến lớn
tôi nghe nhiều chuyện ma. Thực sự, tôi không tin có ma và chắc chắn không sợ
ma. Vào thập niên 1940, chúng tôi ở trong mấy mẩu đất của ông Nội tôi, tại Ấp số
4, mặt nhà nhìn
về hướng Đông là khu Mã Thánh. Từ đó, tôi đến trường Sơ Cấp Đa
Nghĩa trên đường Hai Bà Trưng. Sau ngày mẹ tôi đột ngột qua đời, năm 1949, ba tôi
giao 4 anh em tôi cho người cậu ruột của tôi đang làm việc và có căn cư xá ở Ty
Quan Thuế Đà Lạt, nằm trên đĩnh núi nhìn về xóm Lò Gạch ở phía Nam, trên đường Yagout ở phía Tây.Khu Domaine De Marie nằm ở
phí Đông Bắc. Từ đó, khi dời qua trường Tiểu Học Dalat, tôi phải đi ngang ngôi
nhà lầu bệnh viện cao hai tầng, qua cửa Nhà Xác có khi còn thấy chân người chết
qua khe hở cánh cửa, rồi lội tắt xuống đường Hai Bà Trưng, qua cầu đúc rồi lội
bộ lên dốc Nhà Làng. Tuy mới 10 tuổi nhưng vào ngày nghỉ học tôi cứ một mình lội
bộ xuyên qua khu Nhà Thương Thí, băng qua đường Phan Đình Phùng rồi băng núi
qua những nấm mộ trên khu Mã Thánh để thăm mộ Mẹ tôi. Khi về ở đầu dốc Prenn, ngày
nghỉ tôi thường lang thang một mình trong khu rừng, giáp với trường Adran sau này
là Taberd. Không những thế tôi còn một mình đi sục sạo vào những ngôi biệt thự bề
thế bỏ hoang trên khu rừng núi vắng không một bóng người. Tôi kể dài dòng như thế
để nhấn mạnh rằng tôi không sợ ma, ngay cả ban đêm. Cho đến một ngày……
Từ sau ngày
Tiểu Đoàn 6 TQLC dựng ngọn cờ vàng ba sọc đỏ lên Kỳ Đài Cổ Thành Quãng Trị đổ nát,
suốt mảnh đất cằn cỗi từ phía Bắc song Mỹ Chánh lên đến La Vang, xác chết và tử
thi của hai bên chiến tuyến rải rác la liệt và lẫn lộn. Trên một ngọn đồi thấp,
dưới chân rặng núi Trường Sơn phía Đông, giửa lùm cỏ tranh cao ngang ngực người,
nguyên một Tiểu đội CS MIền Bắc chết gục
ngay tại chổ với đội hình bố trí vòng tròn. Các xác chết đã rữa nát, nhưng thoạt
trông quân phục và vũ khí như còn nguyên, nhưng khi dùng đấu cây thọt vào tất cả
xụp đổ xuống thành một đống tro xám xịt.
Rải rác trên
con lộ đá, từ ngoài Quốc lộ 1, Bắc Mỹ Chánh dẩn vào Trường Sơn, trên những cánh
đồng cỏ tranh và đồi Sim lúp xúp chạy lên tận Động Ông Đô, hàng trăm chiến sĩ vô
danh của lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến ngả xuống trên đường tiến quân
ồ ạt, đẩy lui quân CS xâm lăng từ bên kia sông Bến Hải. Trận đánh dữ dội ngày đêm
với bom đạn, hỏa tiển từ cả hai bên, từ trên núi, Đại pháo 130 ly, 122 ly, 100
ly, từ ngoài biển với hải pháo đủ tầm cở của Đệ Thất Hạm đội Hoa Kỳ dội vào, và
Từ các Pháo Đội 155 đến 175 ly ở các vị trí tác xạ phía Nam Mỹ Chánh, từ trên
không trung, các phi tuần chiến đấu cơ ngoài biển bay vào và từ Đà Nẵng bay lên.,
các Trực thăng võ trang với những ổ Đại liên khạc đạn như Rồng, Phóng Lựu đạn bấm
nổ từng tràng bằng điện, suốt cả tháng ngày dài, xen với từng lọat bom nổ không
ngừng từ các Pháo đài bay B52 dội xuống.
Bây giờ, cây
rừng trên các ngọn núi phía Đông Trường Sơn đã trơ truị, tan tác do bom đạn và
thuốc khai quang màu vàng. Buổi sáng, giửa cảnh núi rừng u tịch, không ai còn
nghe tiếng chim kêu hót ríu rít và cả tiếng côn trùng rả rich quen thuộc cũng
không còn nửa. Chỉ còn lại không gian lặng thinh, chết đứng. Có người cố đứng
im hàng giờ để nghe ngóng. Hình như chỉ còn tiếng gió rung là cỏ Tranh xào xạc
khô khan và ngột ngạt. Vùng đất chết ngập tràn mùi tử khí như đang nằm im lặng
chờ bom đạn tiếp tục dội xuống, từ một nơi nào đó bay tới, làm loang lổ thêm mảnh đất khô cằn sỏi đá.Bom đạn sẽ bật lên từng
gốc cây, chém gảy từng cành lá khẳng khiu. Ác quỹ chiến tranh đã có mặt nơi đây,
đang quay cuồng múa may trên một diện tích
nhỏ hẹp, suốt một khoảng thời gian dài.
Cỏ cây và
sinh vật quanh đây đều như nín thở nghe ngóng, chờ đợi. Khi mảnh đất khô cằn này
được cuốc lên, lẩn trong sỏi đá nay còn mảnh bom đầu đạn và hàng vạn mủi tênthép
nhỏ xíu bắn xuống từ quả bom nổ lưng chừng trên không, mở nắp.
Từ ngày ngừng
bắn, do Hiệp địng Paris năm 1973, Tiểu Đoàn 4TQLC được điều động chuyển vị trí
phòng ngự ở phía Nam sông Thạch Hãn, Quãng Trị, từ mặt biển ở Chợ Cạn qua bến Mỹ Thủy, rồi lên vùng núi ở
La Vang, lui đến căn cứ trên các ngọn đồi cỏ trọc, phía Đông sông Mỹ Chánh vào
sâu tận chân dảy núi Trường Sơn. Tiểu đoàn phải rải cả 4 Đại đội tác chiến, với
quân số tham chiến bắt buộc phải trên 750 tay súng, suốt dọc phòng tuyến giáp
ngay với quân CS Bắc Việt. Thực ra, phòng tuyến đã thành hình từ lúc có lệnh ngưng
bắn thực thi Hiệp địng năm 1972. Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 147 TQLC được tăng cường một
Đại đội Địa phưoơng quân 1010 từ Huế lên. Quân số không hơn 60 người do tình trạng
tham ô nhũng lạm.Tôi buộc lòng phải sử dụngđơn vị tăng phái này để bảo vệ trục
lộ rải đá từ Quốc Lộ 1 vào chân núi, do quân du kích CS trở lại hoạt động Không
ai mong mỏi gì hơn từ một Đại đội ĐPQ Biệt Lập từ Huế lên. Vào giửa năm 1973, lợi
dụng tinh thế đình chiến, Việt Cộng đã khai mào trở iại các hoạt động du kích
phá hoại sau lưng phòng tuyến của TQLC ở Quãng Trị. Ban đêm chúng luồn các tổ
Tiền sát viên Pháo binh vào sâu và ém dấu trên một vài đỉnh núi cỏ trọc để theo
dỏi hoạt động của TQLC cũng như gọi Pháo bắn phá gây xáo trộn.Những khẩu Pháo
130 ly của VC kéo vào từ Miền Bắc được đấu kín trong hầm đào sâu vào chân núi.
Vài quả Pháo cũng đủ làm cho xáo trộn đời sống vốn chưa bình thường của dân hồi
cư và gây hoang mang, lo sợ lên vùng giới tuyến. Các toán Viễn Thám của TQLC được
gởi lên vùng nuí sục sạo tìm kiếm đã bắn hạ cả toán Tiền Sát Pháo VC nằm trên một
đỉnh núi.Ngoài ra, chúng còn dùng dân chúng địa phương gài lìn và lựu đạn trên trục lộ tiếp tế của
TQLC từ QL1 vào căn cứ Barbara ở phía Đông Trường Sơn.
Phía Hoa Kỳ,
ở Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, chính quyền Mỹ đã xoa tay thỏa mãn với số tù binh được trao
trả cuối năm 1972. Báo chí truyền thong lăng xăng vui vẻ với các bài tường thuật,
hình ảnh tạo xúc động, gây nước mắt cho quần chúng Mỹ. Một thứ quần chúng đã quá
mệt mỏi, chán ngán về cuộc chiến tranh Việt Nam, kéo dài lê thê, không lối thoát
và không chiến thắng. Những anh hùng mệt mỏi của chiến tranh đã quay về với gia
đình và quê hương, còn lúng túng trong bộ quân phục mới nguyên và cấp bậc mới
truy thăng cáu cạnh. Thế là xong rồi. Hết chiến chinh!
- Từ bờ biển Mỹ Thủy, TĐ4TQLC được điều động về
khu nhà lợp lá trên cánh đồng hẹp, ngay phía Đông QL 1, dưới Hải Lăng, để tạm
nghỉ dưởng quân chờ lên núi. Đêm hôm ấy, người lính gác ngoài chổ ngủ cuả Tiểu Đoàn
Trưởng, giửa khuya tịch, nghe tiếng cấp
chỉ huy nói từng câu tiếng Anh rỏ mồn một.Anh không hiểu gì nhưng biết là tiếng
Mỹ. Được biết cấp chỉ huy mới du học Mỹ về từ năm ngoái nhưng anh ta lấy làm lạ
sau ông lại nói tiếng Mỹ khi nằm mơ.Trong buổi nhậu nhẹt khô nuớng, Trung sĩ Nhất
Quân nói khề khà : Tụi mầy bù trất. Đại Bàng ổng nói ổng gặp thằng Phi công Mỹ trên là White. Hai người nói qua
lại mấy câu thì nó biến mất”. Quân chặc lưởi nhìn quanh, nói “ĐM quanh đây cũng
đầy máy bay Mỹ bị bắn rớt trong Mùa Hè Đỏ Lửa năm 72 đó” Đêm ấy, khi vừa nhắm mắt
ngủ, tôi chợt thấy xuất hiện một ngươì lính Mỹ mặc đồ bay màu xám, mang cấp bậc
Thiếu Tá và bảng tên White.Chỉ vài câu hỏi qua lại chợt người Sĩ Quan Phi công
Mỹ này biến mất. Sau này, khi lên thăm Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, từ Quantico, đến Bức
Tường Đá Đen tôi đã tìm thấy tên Thiếu Tá Lục Quân James White trên bảng khắc
58 ngàn chiến binh Mỹ tử trận và mất tích tại cuộc chiến Việt Nam. Mấy ngày
sau, Tiểu đoàn tôi được lệnh lên núi bàn giao vị trí cho Tiểu Đoàn Trâu Điên do
Thiếu Tá Trần Văn Hợp chỉ huy.Thiếu Tá Hợp nguyên gốc dân làng Dâu Tây Nghệ An
Hà Tĩnh ở Dalat, xuất thân từ trung học Trần Hưng Đạo năm 1963 và theo học khóa
19 Võ Bị .Tôi rất quý mến Hợp do tình thân từ Đà Lạt và cùng trường Võ Bị Đà Lạt.
Hợp cầm quân chiến đấu từ chức vụ Trung đội trưởng lên đến Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2Trâu
Điên vào năm 1972.Tuy là khóa đàn em nhưng Hợp khoá 19 và Đinh Xuân Lãm Khoá 17
Võ Bị, cùng được thắng cấp Trung Tá cùng ngày 1/1/1975 với tôi. Sau ngày mất nước, Hợp bị tù đưa ra Bắc và chết ở
Hoàng Liên Sơn năm 1979. TĐ4TQLC lên bàn giao với hai cánh quân chiến thuật Cánh
B với hai Đại đội và Bộ Chỉ Huy nhẹ do Thiếu Tá Phạm Văn Tiền Tiểu Đoàn Phó dàn
quân hai bên ngọn núi cao dựng đứng là một căn cứ củ của Mỹ lấy tên là Barbara.
Người ta bây giờ,có thể thấy rỏ trục lộ bằng đất quanh co của Đường mòn HCM, với
xe và Pháo với quân lính CS xuôi ngược Nam Bắc ngày đêm.Từ cao độ này, người ta cũng nhìn rỏ bằng mắt thườngcác
vị trí chốt đóng quân của CS rải rác dưới thấp, bvới các sinh hoạt cố che dấu,
lấp liếm để giử bí mật quân sự. Trong khi, các chị Nuôi VC cứ trưa trưa ra suối
tuột quần rửa ráy vội vả dưới cả trăm con mắt của lính tráng hai phe. Cánh A của
Tiểu Đoàn cũng gồm hai Đại đội tác chiến còn lại với Đại đội Chỉ Huy và Công Vụ
dà trải mặt Tây trên địa hình núi rừng trùng điệp âm u. Đại đội CH do Đại Uý Trần
Kim Tài chỉ huy đảm trách cùng Bộ chỉ Huỷ Tiểu Đoàn phòng thủ vòng tròn trên lưng
chừng ngọn núi, ở khúc quanh kế cận con lộ đá dẩn từ QL1 vào núi. Đại đội CH và
CV gồm Bộ Chị Huy TĐ và các dơn vị yểm trợ như Trung đội Súng Cối 81 ly, Trung
Đội Quân Y với Bác sĩ Long, Trung Đội Truyền Tin, Biệt kích, quân xa….Bộ Chỉ
Huy TD đặt dưới quyền điều động trực tiếp của Thiếu Tá Nguyễn tri Nam xuất thân
Khoá 22 Võ Bị, là Sĩ quan Hành Quân và Huấn Luyện, hành sử như một Tham Mưu Trưởng
thay mặt Tiểu Đoàn Trưởng từ lệnh hành quân đến việc bổ xung quân số, tiếp liệu,
tiếp tế, tản thương cùng phi pháo yểm trợ khi cần. Toàn bộ Ban Chỉ Huy bỏ túi xúm
xít làm việc trong một căn hầm chống pháo kích mổi bề độ 3 thước tây. Căn hầm
được lính dung cuốc xẻng đào bới vào lưng núi, với một máy điện Honda nhỏ cung
cấp điện giửa vùng rừng núi cô tịch.Tôi nằm ngủ cũng trong một căn hàm nhỏ khác
kế cận, được trang bị thêm một máy truyền tin AN/PRC25.
- Một đêm, vào cuối tháng 10 năm 1974, trăng luởi
liềm lên nửa chân trời phía Đông.Sưpơng mù lảng đảng dưới chân núi như đêm ở Đà
Lạt., quấn quích quanh dươí chân các ngọn núi nhấp nhô như những dải lụa trắng
bay váng vất trên không trung. Sau cuộc lấn chiếm bất thành của VC trên phần đất
của TĐ6 TQLC, phía Nam sông Mỹ Chánh, Địch quân bên phòng tuyến của TĐ4TQLC như
cố làm ra vẻ yên tĩnh.Thỉnh thoảng trong đêm, trên trục lộ giao thpông rải đá,
một trái hỏa châu nổ bụp trên không toả ánh sáng vàng chao đảo, chiếu lòa rừng
cây vắng lặng. Không một tiếng con trùng rả rít. Không một tiếng sinh vật sống
về đêm. Vùng đất chết này đã trơ truị, sống sượng và khô khan đến nghẹt thở.
- Nửa đêm về sáng, Thiếu Tá Nam chạy vào hầm ngủ của
tôi lay gọi .Tôi ngời dậy hỏi”VC pháo kích hả?” Nam đáp “Dạ không.Nhưng mà Đại
Bàng phải ra ngoài này xem..Tôi ngạc nhiên nhìn Nam vì thường ngày Nam lúc nào
cũng vui vẻ, tươi tĩnh. Sao, bên phía Thiếu Tá Tiền có gì không?” “ Dạ Không. Đại
Bàng cứ ra đây xem”. Tò mò tôi mặc vội quần áo trận đi ra cửa hầm.Trời đêm nay
thật lạnh.Sương mù đã nhận chìm cả núi đồi xuống vùng thâm u. Phía tay trái, dưới
chân đồi,bên vọng gác canh kế đường đi,
ngọn nến vẩn còn lập lòe trên đầu gói Poncho bọc xác người lính bị vướng mìn chết
chưa kịp di tản. Nam lay mạnh cánh tay mặt của tôi, nói giọng lạc hẳn đi:” 816
nhìn xuống con đường cái bên tay mặt có thấy gì hay không?”(816 là danh xưng
truyền tin của TĐT) Tôi quay ngoắt lại , định thần nhìn lom lom xuống con đường
trải đá phía dưới, Trong ánh sáng nhạt nhòa mờ ảo của ánh trăng lưởi liềm, giửa
dải sương mù váng vất, trên con lộ đá uốn quanh dưới chân đồi, một đoàn quân lặng
lẻ nối gót nhau, đi theo hàng một.Không một tiếng động. Người lính nào cũng mang
băng vải vết thương quanh người. Có người băng trên đầu. Có người mang băng trên
ngực. Ngươì lết chân cũng mang băng trắng.Kẻ đeo cánh tay gảy lủng lẳng. Tôi còn
nhận ra người lính Mỹ Đen lê lết, kẻ mặc áo rằn ri, người mặc đồ Bộ Binh và cả
lính mặc đồ chính quy của VC.Cứ hàng một họ lặng lẻ đi về hương núi Trường Sơn.
Đột nhiên, tôi chợt nhớ ra và dồn hơi hỏi lớn:” Đưá nào gác dưới đường đó.Có thấy
gì không?” Từ dười chân đồi có tiếng đáp lại: ”Dạ không có gì 816” Không có gì?
Tôi quay lại nhìn xuống con đuờng. Tất cả đều biến mất trong thinh không tĩnh lặng. Cảm
giác rợn người chạy suốt trên lưng của tôi khi Nam lên tiếng :” Chắc các oan hồn
người chết hiện lên đó 816” Sáng ngày hôm sau, Nam xin phép lên xe chạy về Chợ
Mỹ Chánh mua trứng vịt và nhan đèn về cùng âm hồn dươi con đường chạy ngang Bộ
Chỉ Huy Tiểu Đoàn.
- Trần Ngọc Toàn
- * Ngày 25 tháng 3 năm 1975, tại Thuận An, Huế,
Thiếu Tá Nguyễn Tri Nam xuất thân Khoá 22 Võ Bị Đà Lạt đã tử trận khi làm Tiểu Đoàn
Phó TĐ4TQLC.