Về Miền Trung: Bến Chân Mây, Bãi Lăng Cô, Cố đô Huế
Thuộc địa phận Thừa Thiên, Chân Mây là một làng nhỏ đơn sơ được biết đến chỉ vài năm sau này, khi bến cảng được đào sâu rộng thêm cho những thương thuyền hay du thuyền rất lớn có thể cập bến -mà ngay như bến Bạch Đằng Sài Gòn hay hải cảng Nha Trang cũng chưa đủ khả năng. Thuyền tầu trước đó hay đổ khách gần Đà Nẵng, không xa Hội An, cả hai tỉnh thành với vẻ đặc sắc từ thiên phú đến công người tác tạo, đều là điểm du lịch được giới truyền thông dành cho nhiều khen tặng, và khách xa cũng hay tỏ lời ưa thích. Đà Nẵng được đánh giá là Thành phố lý tưởng nhất Việt Nam về cách tổ chức và phát triển tốt đẹp toàn diện, cho cư dân một cuộc sống an toàn thoải mái, gây ao ước cho biết bao thị thành khác trên quê hương đất Việt.
Trên đường từ Chân Mây đến Lăng Cô -đều được quảng bá là đang trên đà phát triển mạnh.. Nhưng thấy có nhiều công trình xây cất như bao dẫy chung cư cao cấp trong tình trạng suy sụp, lắm khu biệt thự khang trang nay bị bỏ dở dang tiêu điều cát phủ, xem như những khu phố ma, trường học ma, công viên ma, nhà thương ma.. đầy rẫy trên nước ta mà báo chí vẫn mạnh dạn lên tiếng, để sau cũng.. chìm đò, như đã vậy và có vẻ sẽ thế! Cậu lái xe giải thích: Tiêu tán hết trơn rồi, mới đầu họ mở công ty xây dựng, ra chương trình thiệt hoành tráng với vài khu nhà có mẫu mã to tốt rồi rần rần quảng cáo, hứa hẹn nhiều triển vọng và tương lai huy hoàng, để huy động vốn liếng người mua hay đầu tư bán lại lấy lời.. Sau đó công trường chợt ngưng hoạt động, công trình bị đóng băng, công ty dẹp tiệm, tuyên bố phá sản vì lỗ lã cạn nguồn.. Đâu ai biết họ làm ăn ra sao, nhưng khổ cho nhiều người lâm cảnh mất mát dở sống dở chết, nợ nần chồng chất, kêu trời không thấu luôn!!
-
Nằm giữa Hội An và Huế nên đều tiện đường cho khách thăm viếng, bãi biển Lăng Cô được báo chí khen là rất đẹp, ngày càng thu hút người thăm bởi còn vắng vẻ, an bình. Có khu nghỉ dưỡng /rerorts khá tốt mời chào khách du thuyền dừng chân, gặp hôm gió mạnh biển động sóng tràn bờ..
Xe trên đường xa 70 cây số đến Huế, qua Phá Tam Giang thênh thang mây nước, những xóm làng núi đồi xanh ngát thấp thoáng cánh cò bay, và nhà nông bên thửa ruộng lúa non tươi mơn mởn. Người dân tỉnh lẻ miền Trung, nhất là trên những vùng cao còn rất nhiều vất vả.
Huế là thơ.. Huế là mơ.. cố đô Huế với hoàng thành và lăng tẩm các vị vua triều Nguyễn. Huế vẫn còn chút thanh thản nhờ dòng sông Hương lững lờ và các khu ngoại ô có núi đồi hồ rạch mang làn gió thoáng. Người dân Huế còn giữ được nét nền nã, không mấy tất bật như người Sài Gòn. Huế của bao tài nhân và vua quan Nhà Nguyễn. Cổ thành Huế và những thành nội, ngoại thành cùng bao đền đài cổ kính tôn nghiêm, cho người dân Huế niềm hãnh diện thuộc về phần đất hoàng triều lịch sử của các vị vua cuối cùng nước Việt.
Hoàng thành và Cổ điện,
Năm 1802, Vua Gia Long ban lệnh cho khởi công xây dựng Hoàng Thành và Hoàng Cung, lập kinh đô của dòng dõi các vua Nhà Nguyễn -để trải dài qua nhiều cuộc bể dâu đến năm 1945. Tổng thể hoàng thành được xem như một kinh thành trong một thành trì kiên cố, trước khoảng sân có nền tháp bề thế dựng uy nghi cột cao 40 thước, mang mầu cờ tung bay trong gió. Chiếc cầu rộng trên dòng nước hào sâu dẫn vào Hoàng Cung qua cổng chính Ngọ Môn -chỉ riêng dành cho hoàng đế, tất cả các nhân vật khác đều phải dùng nhiều cửa phụ chung quanh, tiến vào Điện Thái Hoà.
Điện Thái Hoà -nơi cử hành lễ đại triều, là ngôi điện lộng lẫy nhất của hoàng cung còn bền vững đến nay, được xây cất toàn bằng gỗ lim cổ thụ với 80 cột to sơn son thiếp vàng, chạm khắc đầu rồng và hình rồng uốn lượn tượng trưng cho Thiên Tử. Ngày lễ đại triều hoàng đế ngự trên ngai vàng lộng lẫy giữa chính điện, hoàng thân vọng tộc đứng chầu hai bên, các quan đại thần dàn hàng ngang trước sân theo thứ tự phẩm trật được khắc lên bảng đá, đúng nguyên tắc Tả Văn, Hữu Võ.
Nhiều trạm canh và đài gác được đặt từ các cổng, tiếp đến là Điện Thái Hoà Tả Vụ, Điện Thái Hoà Cần Chánh, Điện Thái Hoà Hữu Vụ.. Rồi những cung, miếu, điện, phủ.. được xây quanh như Thái Bình Lâu, Cung Diên Thọ, Nhà Bát Giác.. Quần thể khu hoàng thành và hoàng cung được Tổ chức UNESCO phong danh là Di sản Văn hoá của Thế giới. Riêng Nhã Nhạc -Âm nhạc Cung đình cổ Việt Nam, được danh tặng Di sản Văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại. Cả 3 di sản tư liệu cổ là Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn và Giá trị Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế cũng được vào bảng xếp hạng các Di sản Văn học của Thế giới.
* Lăng Vua Minh Mạng,
Mang tên Hiếu Lăng, lăng tẩm vua Minh Mạng -vị vua thứ hai của Triều Nguyễn, trị vì từ năm 1820 đến 1841. Được khởi công năm 1840 trên vùng núi Cẩm Kê /Hiếu Sơn bên hồ Trừng Minh hướng về phía nam, giữa một tường thành bao che dài rộng, cách kinh thành khoảng 10km. Tổng thể khu lăng mộ có 40 kiến trúc to nhỏ, mà các công trình chính thuộc khu Tâm Điện, lăng mộ được xây ở Trục Trung Tâm /Thần Đạo. Sau cổng chính Hiển Đức Môn là các cổng Đại Hồng Môn, Tả Hồng Môn, Hữu Hồng Môn dẫn đến Bái Đình -sân chầu, nơi các quan đại thần đứng chờ nghe lệnh vua.. Nay trên sân được đặt nhiều tượng đá các quan, quân thị vệ, voi, ngựa, bảng đá.. tượng trưng cho lực lượng người theo hầu vua bên kia thế giới. Gần đấy là Bi Đình -miếu cất giữ các bia đá ghi tạc công đức, vinh danh nhà vua. Và rất nhiều lầu, cung và điện như: Thái Bình Lâu -là nơi vua đọc sách thánh hiền, Hư Hoài Tạ -chốn vua thư thản, Minh Lâu và Nghênh Lương quán -hai lầu cao cho vua hóng mát. Rồi những Linh Phương Các -khu nghỉ ngơi của vua và các phi tần, Truy Tư Trai -khi vua cần suy tư đèn sách, Quan Lan Sở -để vua ngắm cảnh, Điêu Ngư đình, ở ven bờ nước cho vua câu cá, Sùng Ân điện -nơi thờ phụng vua và hoàng hậu...
Tổng thể khu vực lăng vua Minh Mạng mang vẻ đẹp thâm nghiêm cao trọng nhưng không kém phần thơ mộng, được đánh giá là tác phẩm kiến trúc cổ xuất sắc bậc nhất trong dòng kiến trúc cung đình trên đất Việt.
Nằm ven Sông Hương hiền hòa thơ mộng, in bóng yêu kiều trên một khoảng đồi cao, Thiên Mụ -ngôi chùa và ngọn tháp trang nhã nổi tiếng nhất nước Việt, đã đi vào văn chương qua biết bao bài thơ và dòng nhạc trữ tình đong đầy quyến luyến. Được cho khởi công năm 1601, sau khi một Bà Nhà Trời hiện ra báo mộng cho các tăng sư biết nơi đây là phần đất tuyển, ngôi chùa cổ kính thờ các vị Phật nằm ngang cuối trục chính sau khoảng sân rộng xanh mầu cây cỏ, được dùng nhiều cột gỗ và mái ngói đất nung, nay đã nhuốm mầu thời gian cổ kính qua bao thế kỷ thăng trầm của hoàng triều và vận nước.. Ngày trước chùa Thiên Mụ có ngọn tháp cao mang quả chuông Đại Hồng Chung, nặng gần 2 tấn gióng tiếng trầm vang vọng trên sóng nước Hương giang và những làng thôn hiền hoà -nay được giữ trong một tháp nhỏ, là một Bảo vật quốc gia. Sau chùa có thêm Tháp Phước Điện, từng là chốn Thượng tọa Thích Quảng Đức thường ghé bước, trước khi về Sài Gòn tự thiêu giữa phố thị năm 1963.
* Lăng vua Khải Định,
Nơi an táng và thờ vị vua thứ 12 triều Nguyễn, trị vì từ 1916-1925. Lăng được xây từ năm 1920 và kéo dài đến 11 năm sau, mang chút kiểu cách của một lâu đài Âu châu thời Trung cổ, trên khuôn viên hình chữ nhật với các công trình chính nằm trên một trục thẳng, thêm 5 tầng nền cao qua 127 bậc, dùng các vật liệu hiện đại thời bảo hộ được Pháp trao tặng như ciment, sắt thép, ngói.. cùng bao nguyên liệu truyền thống nước nhà gồm gỗ quý, đá, vôi, ngói, mảnh sành, sứ..
Tầng dưới cùng của lăng vua Khải Định được xây hai nhà Tả Tòng Tự và Hữu Tòng Tự, thờ các công thần. Tầng thứ hai có Nhà Bi Đình và Sân Bái Đình, nơi đặt bia Thánh Đức Thần công và các tượng quan văn quan võ, binh lính, voi ngựa.. Kiến trúc quan trọng nhất là Thiên Định Cung tọa lạc trên tầng cao, là nơi an táng và thờ phượng vua Khải Định, gồm Tả Tùng Phòng và Hữu Tùng Phòng -dành cho lính canh giữ hai bên lăng mộ. Riêng Điện Khải Thành nằm giữa với 3 gian, dùng đặt các bài vị, khám thờ và một tượng đồng uy nghiêm của hoàng đế -được đúc tặng bên Pháp năm 1920, đặt trên nền đài cao, phía dưới là phần mộ vua. Lăng Khải Định mang chút ảnh hưởng văn hoá cổ Âu châu lẫn nét hiện đại thời thuộc địa, cùng các yếu tố nghệ thuật đền đài truyền thống nước Việt, là một thành tựu qua nét pha trộn độc đáo của kiểu kiến trúc cung đình nước Việt vào giai đoạn đầu thế kỷ 20.
* Mục Du Hành Ký đã có bài về Hội An và Đà Nẵng, năm nay thì giờ eo hẹp không cho phép BTX-HA thăm lại lăng vua Tự Đức, vị vua có thời gian trị vì lâu dài nhất trong các vua Nhà Nguyễn (*1847-1883). Các tài liệu xưa cho biết là vua có cuộc sống rất sa hoa, qua phần lăng tẩm được kỹ lưỡng xây dựng thật tráng lệ, hoàn thành 16 năm trước khi ngài băng hà và nổi danh lớn đẹp nhất trong các lăng mộ hoàng gia trên kinh thành Huế. Vua cũng được biết là có tam cung lục viện với hơn 100 thê thiếp và phi tần, nhưng không con trai nối dõi. Người cháu họ Dục Đức nối ngôi vua chỉ được 3 ngày trước khi bị thay thế bởi ngài Hiệp Hoà, là hoàng thân em trai vua Tự Đức.
* Phần tường trình về các lăng tẩm của Kinh thành Huế được trích dẫn từ bảng giới thiệu cảnh quan và tài liệu in phát. Khi tại gia, cho mỗi bài Du ký “khổ chủ” thường truy tìm để học hiểu thêm qua các trang mạng và Wikipedia. Chuyến trú đông của snowbirds năm nay cho cách cò xa được ghé bến bờ quê hương trên Huế, Nha Trang và cảng Phú Mỹ -gần Vũng Tầu, nên có thể về Sài Gòn, hay thảnh thơi trên bãi biển Cap Saint-Jacques -nơi của một thời tuổi nhỏ, được cùng gia đình có ông bà, ba mẹ và các anh chị em hay ra chơi vui đùa nhẩy sóng Ô Cấp suốt ngày, đến đỏ au cả người..
Gửi ý kiến của bạn