Palmyra nằm
ven sông Euphrates cách thủ đô Damascus khoảng hơn 200km, từ
thời xa xưa là điểm dừng chân của các đoàn người
rong ruổi trên lưng lạc đà chuyên chở những kiện hàng
hóa cho việc bán buôn đổi chác. Palmyra có những đền
đài huy hoàng lộng lẫy như đền Bêl, Nebo, Baal-Shamin và
được danh tặng là Nàng
dâu của sa mạc/ Bride
of the Desert,
được nhắc nhiều trong Kinh thánh Cựu Ước. Palmyra do
chính vua Salomon of Judea, là hoàng tử nối ngôi vua cha
David cho khởi công xây dựng khoảng 1000 năm trước Công
nguyên. Gần 1000 năm sau, hoàng đế La Mã Hadrianus đến
giám sát Palmyra, và do quá thích thú trước những đền
đài rực rỡ và cảnh sắc tráng lệ của Palmyra, bèn cho đổi
tên thành Palmyra-Hadriana. Palmyra một thời được cai
trị bởi nữ vương Septimia Zenobia, bà chống đối chính
quyền La Mã, xưng vương quốc độc lập, cả cho quân
đi chiếm đoạt nhiều thành phố thuộc La Mã. Huy
hoàng được một thời gian trước khi hoàng đế Aurelian cho quân sang dành lại phần giang sơn gấm vóc cùng bắt nữ chúa Zenobia mang về The
Eternal City Roma trị
tội phản loạn.
Apamea,
đông đúc cư dân từ thời paleolitic sang đến thời đồ đồng/bronze age và đã được khởi sắc với những đền đài vĩ đại từ nhiều ngàn năm trước. Nay Apamea là một địa điểm khảo cổ rất quan trọng với nhiều tàn tích thành lũy, cung điện mà một số được xây dựng vào thời huy hoàng của La Mã,
cũng như mang nhiều ảnh hưởng các cường quốc Hy Lạp, Byzantine với những cột đá thật to cao vững vàng chạm khắc rất công phu, khéo léo.